Phân tích tương quan giữa các đặc điểm hình thái và khối lượng trụ mầm/quả của 3 loài cây ngập mặn phục vụ chọn giống tại Vườn quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định
DOI:
https://doi.org/10.55250/Jo.vnuf.14.4.2025.071-078Từ khóa:
Cây ngập mặn, chọn giống, hình thái, khối lượng trụ mầm, tương quan, Vườn quốc gia Xuân ThủyTóm tắt
Việc lựa chọn trụ mầm chất lượng là bước quan trọng trong công tác chọn giống phục vụ gieo ươm, xúc tiến tái sinh tự nhiên rừng ngập mặn. Nghiên cứu này nhằm phân tích mối tương quan giữa các đặc điểm hình thái và khối lượng của trụ mầm/quả thuộc 3 loài cây ngập mặn phổ biến ở Vườn quốc gia Xuân Thủy cũng như các tỉnh có rừng ngập mặn phân bố ở miền Bắc Việt Nam: Trang (Kandelia obovata), Mắm biển (Avicennia marina) và Đước vòi (Rhizophora stylosa). Tổng số 504 trụ mầm Trang, 1.008 quả Mắm biển và 756 trụ mầm Đước vòi đã được thu hái vào thời điểm quả chín, sau đó tiến hành đo chiều dài, đường kính (tại vị trí lớn nhất, nhỏ nhất) và cân khối lượng. Kết quả cho thấy: (i) Trụ mầm Trang có khối lượng tương quan chặt với đường kính lớn nhất (hệ số 0,74), thấp hơn với đường kính nhỏ nhất (0,65) và chiều dài (0,59); (ii) Quả Mắm biển có khối lượng tương quan rất chặt với đường kính dọc và ngang (0,89 và 0,77); (iii) Trụ mầm Đước vòi có khối lượng tương quan chặt với đường kính nhỏ nhất và lớn nhất (0,85 và 0,83), tương quan thấp hơn với chiều dài (0,67). Mối liên hệ yếu hoặc không đáng kể được ghi nhận giữa chiều dài và đường kính ở cả 3 loài. Kết quả này cho thấy khối lượng là chỉ tiêu hình thái ổn định, phản ánh rõ đặc điểm hình thái khác, từ đó có thể được sử dụng như một chỉ số đại diện trong công tác chọn giống. Việc xác định khối lượng đơn giản hơn nhiều so với đo đạc các chỉ số hình thái, giúp tăng tính khả thi và hiệu quả cho sản xuất giống và phục hồi rừng ngập mặn.
Tài liệu tham khảo
[1]. Trần Thị Mai Sen, Nguyễn Thị Kim Cúc, Phạm Minh Toại, Phạm Thị Quỳnh, Phạm Thị Hạnh, Trần Thị Yến & Nguyễn Thị Thu Hằng (2021). Đặc điểm cấu trúc tầng cây cao của các quần xã thực vật ngập mặn tại vườn Quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp. 3: 041-049.
[2]. Nathalie Tonné, Hans Beeckman, Elisabeth MR Robert & Nico Koedam (2017). Towards an unknown fate: The floating behaviour of recently abscised propagules from wide ranging Rhizophoraceae mangrove species. Aquatic botany. 140: 23-33.
[3]. Trần Thị Mai Sen (2021). Nghiên cứu cơ sở khoa học để đề xuất giải pháp phục hồi rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định. Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm nghiệp.
[4]. Wayne P Sousa, Peter G Kennedy, Betsy J Mitchell & Benjamín M Ordóñez L (2007). Supply‐side ecology in mangroves: do propagule dispersal and seedling establishment explain forest structure? Ecological monographs. 77(1): 53-76.
[5]. John M Cheeseman (2012). How red mangrove seedlings stand up. Plant and soil. 355: 395-406.
[6]. Dennis JR De Ryck, Elisabeth MR Robert, Nele Schmitz, Tom Van der Stocken, Diana Di Nitto, Farid Dahdouh-Guebas & Nico Koedam (2012). Size does matter, but not only size: Two alternative dispersal strategies for viviparous mangrove propagules. Aquatic botany. 103: 66-73.