Hiện trạng phân bố, khai thác và sử dụng loài nấm Linh chi (Ganoderma neo-japonicum Imazeki) tại vùng đệm Vườn Quốc gia Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước
DOI:
https://doi.org/10.55250/Jo.vnuf.14.4.2025.049-059Từ khóa:
Bảo tồn, Bù Gia Mập, Ganoderma neo-japonicum, phân bốTóm tắt
Nấm Linh chi (Ganoderma neo-japonicum Imazeki) phân bố tự nhiên tại Vườn Quốc gia (VQG) Bù Gia Mập. Đây là loài lâm sản ngoài gỗ quan trọng có tiềm năng đóng góp đáng kể vào đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương. Nghiên cứu thực hiện nhằm xác định hiện trạng phân bố, khai thác và sử dụng loài nấm Linh chi của người dân vùng đệm. Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn 250 người, lập 22 tuyến điều tra, 108 ô tiêu chuẩn (OTC) trên trạng thái rừng hỗn giao gỗ - tre nứa tự nhiên núi đất (HG), rừng tre nứa tự nhiên núi đất (TN) và 21 OTC đối chứng tại VQG. Kết quả chỉ ra nấm mọc trên giá thể gốc, thân cây Lồ ô, Nứa bị chết khô vào tháng 6 - 9, ghi nhận ở trạng thái rừng HG và TN. Trữ lượng nấm Linh chi bình quân đạt 12,597 kg/ha. Nấm mọc trong điều kiện môi trường với độ tàn che dao động từ 0,7-0,85; độ ẩm từ 77 - 79%, nhiệt độ từ 26 - 30,1℃. Đa số người dân nhận biết được nấm và mùa nấm tương ứng tỷ lệ 87,2% và 80,8%. 59,2% số người tham gia khai thác nấm trong đó mục đích bán và sử dụng cho gia đình tương ứng với 54,7% và 45,3%. 64,4% số người hiểu biết về giá trị chữa bệnh, độc tính và giá cả thị trường của nấm. Mặc dù, nấm được người dân khai thác và sử dụng rộng rãi nhưng chưa có mô hình nuôi trồng nhân tạo loài này. Do đó, những thông tin hiểu biết về hiện trạng phân bố, khai thác và sử dụng nấm Linh chi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác bảo tồn loài.
Tài liệu tham khảo
[1]. Bui Thi Hien, Nguyen Trang Thu, Nguyen Quang Tuyen, Le Xuan Tham & Dang Ngoc Quang (2014). Cytotoxic steroids in Vietnamese Lingzhi Ganoderma neo-japonicum. Journal of science of Hnue. 59(9): 25-29.
[2]. Wee-Cheat T., Umah R. K., Chia-Wei P., Yee-Shin T., Jegadeesh R., Azliza M. A. & Vikineswary S. (2015). Ganoderma neo-japonicum Imazeki revisited: Domestication study and antioxidant properties of its basidiocarps and mycelia. Scientific Reports. 5(1): 12515.
[3]. Vườn quốc gia Bù Gia Mập (2012). Điều tra tổng thể đa dạng sinh học vườn quốc gia Bù Gia Mập. Đề tài KHCN tỉnh Bình Phước.
[4]. Olga T., Thao N., Long V., Nikolai Y., Marina C., Alexander P., Viktor G., Alexei M. & Oleg K. (2016). Vietnamese Ganoderma: growth, peculiarities, and low-molecular composition compared to European and Siberian strains. Turkish journal of Botany. 40: 269-286.
[5]. Nguyễn Công Vân, Nguyễn Anh Tuấn, Phạm Tấn Việt, Nguyễn Thị Diệu Hạnh, Phạm Nguyễn Đức Hoàng, Lưu Văn Luông, K Não Duy Pháp, Hoàng Thế Hưng Long, Trần Lập Kim & Nguyễn Văn Tâm (2020). Bảo tồn nguồn gen Nấm Linh chi (Ganoderma) có nguồn gốc từ Vườn Quốc gia Phước Bình. Đề tài nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh Ninh Thuận.
[6]. White TJ, Burns T., Lee S. & Taylor T. (1990). Amplification and direct sequencing of fungal ribosomal RNA genes for phylogenetics. In: PCR Protocols: A Guide to Methods and Applications.
[7]. Liễu Như Ý & Trần Nhân Dũng (2012). Đa dạng di truyền một số loại nấm ăn dựa trên trình tự ITS (internal transcribed spacer). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 22b: 18-25.
[8]. Jayaraman K. (1999). A statistical manual for forestry research. Forestry Research Support Programme for Asia and the Pacific. 234 pages.
[9]. Nguyễn Phương Thảo, Lưu Hồng Trường, Vương Đức Hòa & Võ Huy Sang (2013). Ghi nhận ban đầu về thành phần loài Nấm lớn tại vườn quốc gia Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật.
[10]. Zhang R., Zhang J., Guo X., Chen Y., Sun J., Miao J., Carpena M., Prieto M. A., Li N., Zhou Q. & Liu C. (2023). Molecular mechanisms of the chemical constituents from anti-inflammatory and antioxidant active fractions of Ganoderma neo-japonicum Imazeki. Current Research in Food Science. 6: 100441.